Khi con thuyền nghệ thuật hội ngộ hòn đảo nghệ sỹ
Cù lao Tagg từ quãng giao thế kỷ 19 đến 20 là nơi văn nghệ sĩ và những kẻ có của ăn của để lui đến sinh sống.
Trong tác phẩm “Gió qua rặng liễu” của nhà văn Anh Kenneth Grahame, nhân vật Chuột nói như sau về cuộc sống bên dòng sông: “Cuộc sống ấy là thế giới của tôi, và tôi chẳng mong gì hơn. Những gì cuộc sống ấy không có, chẳng đáng có, những gì cuộc sống ấy không hay, cũng chẳng cần phải hay.”
Cù lao Tagg từ quãng giao thế kỷ 19 đến 20 là nơi văn nghệ sĩ và những kẻ có của ăn của để lui đến sinh sống. Nơi đây không thiếu những khu vườn tẻ nhánh từ đường đất, nơi trồng hoa hồng, oải hương và những ngôi nhà nổi trên mặt nước. Tên gọi Tagg đặt theo Thomas George Tagg, nhà đóng tàu thết kỷ 19 nổi tiếng, người cho xây dựng khách sạn Thames, nơi dừng chân của tầng lớp thượng lưu ở Anh một thời…
Cù lao Tagg, Fred Karno và dòng Thames yên ả
Cả cù lao Tagg từng thuộc sở hữu của David Garrick, diễn viên tài ba kiêm một vai trò không thể quan trọng hơn trong lịch sử khu biệt này: ông chính là người đưa Shakespeare đến với thế giới đại chúng. Bên trong những khu vườn xưa kia từng thuộc sở hữu của David hiện vẫn còn nhiều bức tranh cổ từ thế kỷ 18, là nơi “ngôi đền Shakespeare” đích thực và duy nhất trên thế giới đã được xây nên.
Suốt gần một thế kỷ, một chiếc tàu, đúng hơn là một nhà thuyền, có tên Astoria đã đan cài và quyện lấy cái di sản âm nhạc dọc bờ sông Thames, cù lao Tagg.
Neo ở Hampton, quận Richmond upon Thames ở tây nam London, chiếc thuyền có khung gỗ mahogany, cửa sổ Crittall cỡ lớn, phòng tắm lát cẩm thạch, công tắc đèn cẩn xà cừ, và chùm đèn có tuổi thọ ngót 100 năm. Xây dựng năm 1911, trị giá kếch sù 20.000 bảng thời bấy giờ, gia công bởi những thợ xây tài năng nhất, Astoria là sản phẩm của lời đặt hàng từ bầu sô người Anh Frederick John Wescott, tên nghề nghiệp Fred Karno.
Sinh năm 1866, Fred được nhà sản xuất Hollywood Hal Roach gọi “một thiên tài, người khởi sinh ra hài hình thể” mà môn đệ của ông có cả vua hài Charlie Chaplin và Stan Laurel (tên thật Arthur Jefferson) – đạo quân của Fred Karno, tên gọi chung ngày trước cho tập thể này, ngày nay trong ngôn ngữ hàng ngày của người Anh vẫn mang nghĩa “quấy quá” hay… quá quấy.
Ở thời hoàng kim tiền-điện ảnh của các sân khấu tạp kỹ, đế chế trình diễn của Karno kéo dài hơn hai thập kỷ, đủ sức mua trọn cù lao Tagg và khách sạn lộng lẫy Karsino, cải tạo từ khách sạn Thames, và tuyệt đối không thể thiếu chiếc nhà thuyền sang cả có thể chứa cả dàn nhạc lớn với 90 nhạc công trình diễn trên sông. Theo thời gian, từ 1926 tới 1950, Astoria nằm dưới sở hữu của Vesta Victoria, và sau là Sir James Greenwood, khi nó trở thành, dưới lệnh của James, sân khấu trên mặt nước cho khán giả thưởng thức trên 2000 chiếc thuyền đậu quanh và dọc bờ sông, dưới ánh pháo hoa sặc sỡ.
Cho đến khi David Gilmour của nhóm nhạc Pink Floyd trở thành chủ nhân của Astoria năm 1986, với lý do “thỏa đáng”: cả đời ghi âm, chẳng phòng thu nhạc nào có cửa sổ hay ánh sáng tự nhiên.
Trên Astoria vẫn còn bộ sưu tập những hiện vật và ảnh chụp từ xưa. Theo lời kể, thi thoảng sẽ có người lai vãng đến con tàu, nhận là người quen Fred Karno hay Sir James Greenwood, và hào phóng tặng thân chủ Astoria những món hiện vật quý giá. Charlie Chaplin kể đã từng trải qua một kỳ cuối tuần trên Astoria trong hồi ký của mình.
Phòng thu “chất” nhất thế giới
Một ngày nọ năm 86, David Gilmour ngồi ghế sau xe hơi, bởi một án phạt vì vi phạm sử dụng cồn khi lái xe, nhác thấy qua cửa sổ một khung kim loại nhô bên trên một bức tường. Đánh xe lại bên vệ đường, David trông thấy Astoria. Hai tuần sau, khi đang ở gian chờ khám răng, giở quyển tạp chí Country Life, David lại thấy Astoria đang được rao bán, giá hời. Thậm chí ông còn không nghĩ tới việc phải chất một studio thu âm lên đó, bởi với cây guitar, Astoria trước hết là một chốn tuyệt đẹp, nhiệm màu. Thực ra, những ngày đầu David gia nhập Floyd, nhóm từng trình diễn tại sảnh Palm Court trên cù lao Tagg, vốn nằm trong khuôn viên Karsino lộng lẫy của Fred Karno, trước khi bị phá hủy năm 1973, địa danh này xuất hiện trong bộ phim A Clockwork Orange của huyền thoại Stanley Kubrick.
Pete Townshend của The Who cũng có một studio trên tàu, một chiếc xuồng lớn của Hà Lan 100 năm tuổi. Tuy nhiên đó là câu chuyện của một ngày khác, về Grand Cru Studio.
David cương quyết không muốn thay đổi bất cứ thứ gì thuộc về cấu trúc của tàu, bởi tình yêu dành cho kỳ công kiến trúc này. Quá trình “chỉnh trang” hóa ra trở thành quá trình bảo tồn nội thất của tàu đồng thời vẫn đáp ứng trọn vẹn các yêu cầu ghi âm và sản xuất khắt khe nhất, cầu kỳ đến từng chi tiết một, và ngốn đến nhiều năm cân chỉnh thường trực. Ngoài công tác cách âm và ánh sáng ở thành, trần và sàn tàu, tiêu chí quan trọng nhất khi cải tổ Astoria chính là gìn giữ vẻ đẹp và “cảm xúc” của tàu. Chiếc lò sưởi trên tàu, cùng ống khói, chế tác cùng năm 1912 với chiếc Titanic (có thể nhìn thấy ở đầu phim khi tiếp cận xác tàu) trở thành chỗ tiêu âm trầm cho Astoria. Một nét thú vị khác có thể kể là cách khử sóng vỗ đứng vào thân tàu: khi thu âm Broken China cho Rick Wright, tay keyboard của Floyd, bản thu có cả tiếng… vịt kêu.
Theo Phil Taylor, người đảm trách backline của Pink Floyd và “tổng quản” hệ thống âm thanh của Astoria, dường như luôn có một thôi thúc phải tạo ra thứ âm thanh càng hay càng tốt ngay từ đầu, tất cả đều tham gia thảo luận và quyết định hệ thống âm thanh tương ứng cũng như cách triển khai chúng. Bởi, họ chính là Pink Floyd.
Tiêu chí quan trọng nhất khi cải tổ Astoria là gìn giữ vẻ đẹp và "cảm xúc" của con tàu.
Phòng điều khiển – chính là phòng thu – của Astoria có kích thước 9x6m, một môi trường thu âm lý tưởng, ít nhất với tính cách khoan nhặt, từ tốn của David Gilmour – chưa kể ba phòng ngủ, bếp, nhà tắm, và một lounge lớn, tất cả trong chiều dài hơn 27 thước. Nhìn toàn cảnh, đây là một căn phòng ấm cúng có trần cao, ngóng ra vùng thôn quê, và có tiếng chim líu lo khắp nơi. Sàn phòng thu trải thảm, và do đặc thù không gian khép kín, những bộ amp nhỏ hơn được sử dụng như Fender Princeton và G&K, điều làm nên tiếng guitar đặc trưng của David, và giọng hát ấm áp, mê hoặc.
Không ngoa khi nói rằng, hiếm khi nào – ít nhất theo chuẩn mực audio một thời gian dài trước đây, từ những bậc thầy trong nghề – có được mức độ quan tâm dường này cho độ trung thực và chi tiết của âm thanh. Thậm chí Astoria giống như một phòng master hơn một studio.
Ban nhạc rock huyền thoại Pink Floyd
Astoria chính là nơi “ra lò” ba album phòng thu cuối cùng của Pink Floyd, A Momentary Lapse of Reason (1987), The Division Bell (1994) The Endless River (2014), và một phần album solo On an Island (2006) với Phil Manzanera đảm nhận vai trò production. Gần đây nhất, Astoria là nơi thu âm album solo Rattle That Lock (2015) của David. Điểm thú vị hơn cả là toàn bộ studio có thể tháo dỡ hẳn ra khỏi con tàu, khá dễ dàng và trả lại con tàu như nó vốn là một công trình kiến trúc đường thủy tuyệt đẹp. Hoặc “trần trụi” hơn, đây là studio thu âm duy nhất trên thế giới mà ta có thể vừa ngồi toilet vừa… cho thiên nga ăn.
Bài: Du Lê - Art Columnist
Comments