Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2030 có 90% xe buýt điện và năng lượng xanh
Các tuyến xe buýt mới sẽ chủ yếu được vận hành bằng xe buýt điện và năng lượng xanh.
Ông Thái Hồ Phương, Giám đốc Trung tâm Quản lý vận tải hành khách công cộng, cho biết tại Đối thoại chính sách quốc gia về phát triển giao thông xanh ngày 21/8, Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2030, 70-90% xe buýt sẽ chạy bằng điện và năng lượng xanh.
Ông Phương cho biết, hiện Hà Nội có 1.905 xe buýt trợ giá, trong đó có 281 xe sử dụng năng lượng sạch (139 xe buýt CNG và 142 xe buýt điện) và trên 1.200 xe buýt đạt tiêu chuẩn khí thải Euro 4 trở lên. Đến nay, việc vận hành các tuyến xe buýt điện đã góp phần giảm 36.000 tấn khí thải CO2.
Về hạ tầng sạc xe buýt điện, hiện tại Vinbus Eco mới chỉ lắp đặt 2 trạm sạc, phục vụ 10 tuyến. Mỗi trạm có 32 và 39 trụ sạc, công suất 120-150 kWh, đáp ứng nhu cầu sạc đầy cho tất cả các xe buýt.
“Thành phố đã xây dựng kế hoạch và lộ trình chuyển đổi sang xe buýt điện và năng lượng xanh theo đúng lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2030, 70-90% xe buýt chạy bằng điện và năng lượng xanh, đến năm 2035 đạt 100%”, ông Phương cho biết.
Lộ trình chuyển đổi từ xe buýt thông thường sang xe buýt điện và năng lượng xanh bao gồm ba kịch bản: (1): 100% xe buýt điện, với tổng số 2.433 xe sau khi chuyển đổi; (2) 70% xe buýt điện và 30% xe buýt LNG/CNG, với 2.212 xe (1.592 xe buýt điện và 620 xe buýt LNG/CNG) sau khi chuyển đổi; (3) 50% xe buýt điện và 50% xe buýt LNG/CNG, với 2.076 xe (1.100 xe buýt điện và 976 xe buýt LNG/CNG) sau khi chuyển đổi.
“Kế hoạch ban đầu của thành phố là đưa kịch bản 3 vào thực hiện. Khi điều kiện cải thiện, Hà Nội sẽ hướng tới triển khai kịch bản 2, sau đó chuyển sang kịch bản 1 sau năm 2040”, ông Phương cho biết.
Kế hoạch chuyển đổi dựa trên việc lựa chọn và xác định cấu trúc hợp lý giữa xe buýt điện và xe buýt năng lượng xanh, có tính đến khả năng thực tế của cơ sở hạ tầng và nguồn cung cấp điện. Các tuyến xe buýt mới sẽ được vận hành chủ yếu bằng xe buýt điện và xe buýt năng lượng xanh.
Xe buýt chạy bằng dầu diesel hiện đang hoạt động sẽ được phép tiếp tục hoạt động cho đến hết thời hạn hợp đồng. Để đạt được các mục tiêu này, ông Phương nhấn mạnh cần có nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước (cho chi phí chuyển đổi và trợ cấp hàng năm) và từ các doanh nghiệp (cho việc mua xe và đầu tư vào cơ sở hạ tầng sạc/nạp nhiên liệu).
Hà Nội cũng đã đề xuất một số giải pháp, bao gồm thúc đẩy lộ trình, chính sách và lợi ích của việc chuyển đổi sang xe buýt năng lượng xanh; tinh chỉnh định mức chi phí cho xe buýt xanh; đưa ra định mức chi phí tạm thời cho các đơn đặt hàng xe buýt xanh trong khi chờ quy định chính thức; và đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho xe buýt điện và năng lượng xanh.
Tầm nhìn cho giao thông xanh đến năm 2050
Đánh giá sơ bộ về cơ cấu hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam, ông Lưu Quang Thìn, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ Giao thông Vận tải) cho biết, hiện cả nước có hơn 24.300 km đường bộ quốc lộ, 2.000 km đường cao tốc, 6.800 km đường thủy nội địa, 2.640 km đường sắt quốc gia, 298 cảng biển, 22 sân bay và nhiều dự án lớn quan trọng khác.
Tuy nhiên, ông thừa nhận những hạn chế hiện hữu, chẳng hạn như sự mất cân bằng trong các dự án cơ sở hạ tầng, tập trung nhiều vào vận tải đường bộ, tiếp theo là đường biển và hàng không. Đường thủy nội địa, mặc dù có tiềm năng, vẫn chưa được khai thác hết ở những vùng có lợi thế.
Hệ thống đường sắt, mặc dù có lợi theo nhiều cách, đã không được đầu tư đầy đủ và vẫn lạc hậu. Đường sắt đô thị phát triển chậm, không giảm được tình trạng tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn.
“Nguyên nhân chính là do xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam còn thấp, dẫn đến thiếu vốn cho phát triển hạ tầng giao thông”, ông Thìn nói. Ông nhấn mạnh mục tiêu chiến lược phát triển hạ tầng giao thông đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là tạo ra hệ thống cân đối, đồng bộ, tận dụng được thế mạnh của nhiều phương thức vận tải, tăng tỷ lệ vận tải công cộng tại các đô thị lớn.
Đối với vận tải đường bộ, mục tiêu là đạt được khoảng 5.000 km đường cao tốc vào năm 2030, với việc tiếp tục đầu tư vào các xa lộ kết nối các trung tâm kinh tế lớn, cảng biển, sân bay và các cửa khẩu biên giới quốc tế có nhu cầu qua lại cao. Cũng sẽ có các khoản đầu tư đồng bộ vào cơ sở hạ tầng để sạc điện và cung cấp năng lượng xanh dọc theo các xa lộ để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang vận tải đường bộ xanh.
“Theo kế hoạch, tổng vốn đầu tư cho các dự án này ước tính là 24,8 tỷ đô la vào năm 2030 và 33,64 tỷ đô la vào năm 2050”, ông Thin nói thêm.
Vận tải đường sắt sẽ được ưu tiên do có lợi thế trong việc xử lý khối lượng hàng hóa lớn một cách nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm chi phí, đồng thời giảm ô nhiễm môi trường. “Tập trung xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đẩy nhanh đầu tư vào đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để giảm ùn tắc giao thông và kết nối chúng với đường sắt cao tốc để hình thành mạng lưới vận tải hành khách thuận tiện trên toàn quốc. Ngoài ra, sẽ đầu tư vào các tuyến đường sắt mới, điện khí hóa để kết nối các cảng biển và sân bay quan trọng”, ông giải thích.
Hơn nữa, các tuyến đường sắt hiện có sẽ được nâng cấp với cơ sở hạ tầng hỗ trợ sử dụng năng lượng điện và năng lượng xanh.
Đầu tư vào đường sắt chạy bằng điện được coi là giải pháp tối ưu cho quá trình chuyển đổi phương thức vận tải, đặc biệt khi Việt Nam ưu tiên phát triển nền kinh tế các-bon thấp với mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Ông Thìn cho biết, các nỗ lực sẽ tập trung vào việc huy động vốn từ mọi thành phần cho cơ sở hạ tầng giao thông, với các ưu đãi đầu tư tối đa. Chiến lược bao gồm thu hút ODA và vốn vay ưu đãi cho các dự án quy mô lớn, tận dụng tài sản hiện có và xây dựng các cơ chế để tối ưu hóa đầu tư phù hợp với nhu cầu của từng ngành và khả năng cạnh tranh quốc tế.
“Danh mục các dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông sẽ được lập và công bố để thu hút đầu tư thông qua mô hình PPP và đầu tư nước ngoài vào năm 2030 và sau đó”, ông Thìn kết luận.
Bài: Navigator Media
Comments